Category QUẢN LÝ TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP SMEs

Khả năng thanh toán nhanh

Đánh giá khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty bằng các tài sản có tính thanh khoản cao. Chỉ số này cho thấy sự an toàn và linh hoạt của công ty trong việc đối phó với các biến động về dòng tiền và nhu cầu tài chính

Khả năng thanh toán nhanh – Quick Ratio

Khái niệm

Khả năng thanh toán nhanh (Tiếng Anh: Quick Ratio) là một chỉ báo về vị thế thanh khoản ngắn hạn của công ty và đo lường khả năng đáp ứng nghĩa vụ ngắn hạn của công ty bằng tài sản có tính thanh khoản cao nhất của công ty. Vì nó cho thấy khả năng của công ty trong việc sử dụng ngay tài sản gần tiền mặt của mình (tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt) để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn, tỷ lệ này còn được gọi là acid test ratio.

Công thức

Khả năng thanh toán nhanh=(Tài sản nhanh)/(Nợ ngắn hạn)

Tài sản nhanh được định nghĩa là tài sản có tính thanh khoản nhất có thể dễ dàng chuyển đổi thành tiền mặt. Đối với hầu hết các công ty, tài sản nhanh chỉ giới hạn ở một số loại tài sản: Tiền mặt, các khoản tương đương tiền, chứng khoán thị trường và các khoản thu ròng.

Tùy thuộc vào loại tài sản ngắn hạn mà công ty có trong bảng cân đối kế toán, công ty cũng có thể tính toán tài sản nhanh bằng khấu trừ tài sản ngắn hạn kém thanh khoản khỏi bảng cân đối kế toán. Ví dụ, xem xét rằng hàng tồn kho và chi phí trả trước có thể không được chuyển đổi dễ dàng hoặc nhanh chóng thành tiền mặt.

Khả năng thanh toán nhanh= (Tài sản ngắn hạn-Hàng tồn kho-Chi phí trả trước) / (Nợ ngắn hạn)

Công thức thông dụng tại Việt Nam:

Khả năng thanh toán nhanh=(Tài sản ngắn hạn-Hàng tồn kho)/(Nợ ngắn hạn)

Ý nghĩa của hệ số

Tỷ lệ thanh toán nhanh đo lường số tiền của tài sản lưu động có sẵn so với số tiền nợ hiện tại của một công ty. Tài sản thanh khoản là những tài sản hiện tại có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền mặt với tác động tối thiểu đến giá nhận được trên thị trường mở, trong khi các khoản nợ ngắn hạn là các khoản nợ hoặc nghĩa vụ của công ty phải trả cho các chủ nợ trong vòng một năm.

Kết quả hệ số là 1 thì được coi là tỷ lệ thanh toán nhanh thông thường. Nó chỉ ra rằng công ty được trang bị đầy đủ với chính xác đủ tài sản để thanh lý ngay lập tức để thanh toán các khoản nợ hiện tại (nợ ngắn hạn). Một số công ty có hệ số khả năng thanh toán nhanh nhỏ hơn 1 có thể không thanh toán hết các khoản nợ ngắn hạn trong thời gian ngắn, trong khi một công ty có hệ số thanh toán cao hơn 1 có thể thoát khỏi các khoản nợ ngắn hạn ngay lập tức. Chẳng hạn, khả năng thanh toán nhanh là 1,5 cho biết rằng một công ty có sẵn 1,5 đô la tài sản lưu động để trang trải cho mỗi 1 đô la nợ ngắn hạn.

Mặc dù các tỷ lệ dựa trên các con số như vậy cung cấp thông tin chi tiết về khả năng tồn tại và các khía cạnh nhất định của doanh nghiệp, nhưng chúng có thể không cung cấp bức tranh toàn cảnh về sức khỏe tổng thể của doanh nghiệp. Các yếu tố khác như chu kỳ kinh doanh, ngành công nghiệp, chiến lược tài chính, cũng cần được xem xét khi đánh giá khả năng thanh toán nhanh của công ty.

Tỷ lệ thanh toán Tiền mặt

Chỉ số tài chính được sử dụng để đo lường khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty bằng tiền mặt hoặc các khoản tương đương tiền. Chúng ta sẽ tìm hiểu về khái niệm, công thức tính và ý nghĩa của tỷ lệ thanh toán tiền mặt, cũng như những ưu nhược điểm của chỉ số này khi sử dụng để đánh giá thanh khoản của công ty.

Khái niệm

Tỷ lệ thanh toán tiền mặt (Cash ratio) là một thước đo tính thanh khoản của công ty. Hệ số này tính toán tỷ lệ giữa tổng tiền mặt và các khoản tương đương tiền của công ty với các khoản nợ hiện tại của công ty.

Số liệu đánh giá khả năng thanh toán nợ ngắn hạn của công ty bằng tiền mặt hoặc các nguồn gần tiền mặt, chẳng hạn như chứng khoán dễ bán. Thông tin này rất hữu ích cho các chủ nợ khi họ quyết định số tiền, nếu có, họ sẵn sàng cho một công ty vay.

Công thức tính

Tỷ lệ thanh toán tiền mặt = (Tiền và các khoản tương đương tiền)/(Nợ ngắn hạn)

Trong đó:

  • Tiền và các khoản tương đương tiền bao gồm tiền mặt, tiền gửi ngân hàng, chứng khoán thị trường tiền tệ và các khoản đầu tư ngắn hạn có thể chuyển đổi thành tiền mặt trong vòng 90 ngày hoặc ít hơn.
  • Nợ ngắn hạn bao gồm các khoản nợ phải trả trong vòng một năm, chẳng hạn như nợ vay ngắn hạn, phải trả người bán, phải trả tiền lương và các khoản phải trả khác.

Ý nghĩa của hệ số

  • Tỷ lệ tiền mặt được sử dụng phổ biến nhất như một thước đo thanh khoản của công ty. Nếu một công ty buộc phải thanh toán tất cả các khoản nợ hiện tại ngay lập tức, thì chỉ số này cho thấy khả năng của công ty có thể thực hiện mà không phải bán hoặc thanh lý các tài khoản khác.

Khi tỷ lệ cho kết quả bằng 1 thì công ty có số nợ ngắn hạn chính xác bằng với số tiền mặt và các khoản tương đương tiền để trả các khoản nợ đó.

  • Khả năng thanh toán tức thời hay tỷ lệ tiền mặt gần giống như một chỉ báo về giá trị của một công ty trong trường hợp xấu nhất – ví dụ khi công ty sắp ngừng hoạt động. Tỷ số này cho các chủ nợ và nhà phân tích biết giá trị của các tài sản ngắn hạn có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt và bao nhiêu phần trăm nợ ngắn hạn của công ty mà các tài sản tiền mặt và gần như tiền mặt này có thể trang trải.

Hệ số nhỏ hơn 1 nghĩa là công ty có nhiều nợ ngắn hạn hơn tiền mặt, điều này có nghĩa là không có đủ tiền mặt để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Điều này có thể không tệ nếu công ty có các điều kiện làm sai lệch bảng cân đối kế toán của mình, chẳng hạn như thời hạn tín dụng dài với các nhà cung cấp, hàng tồn kho được quản lý hiệu quả và rất ít tín dụng được cấp cho khách hàng.

Hệ số lớn hơn 1 có nghĩa là công ty có nhiều tiền mặt hơn cho các khoản nợ ngắn hạn. Trong tình huống này, công ty có khả năng trang trải hết các khoản nợ ngắn hạn và vẫn còn tiền mặt

Nguồn:
investopedia.com

corporatefinanceinstitute.com

wallstreetprep.com

Khả năng thanh toán hiện hành

Tỷ lệ này cho các nhà đầu tư và nhà phân tích biết làm thế nào một công ty có thể tối đa hóa Tài sản ngắn hạn trong bảng cân đối kế toán để đáp ứng giữa các khoản nợ hiện tại và những khoản phải trả khác.

Khả năng thanh toán hiện hành – Bộ chỉ số xét duyệt vay tín chấp doanh nghiệp

Khái niệm

Khả năng thanh toán hiện hành phù hợp với mức trung bình ngành hoặc cao hơn một chút thường được coi là chấp nhận được. Khả năng thanh toán hiện hành thấp hơn mức trung bình ngành có thể cho thấy rủi ro khó khăn hoặc vỡ nợ cao hơn. Tương tự vậy, nếu một công ty có tỷ lệ thanh toán hiện hành rất cao hơn so với trung bình ngành, điều này cho thấy rằng công ty có thể đang sử dụng tài sản của mình chưa hiệu quả.

Tỷ lệ thanh toán hiện hành hay còn gọi là hiện tại bởi vì, không giống như một số tỷ lệ thanh khoản khác, nó là kết hợp tất cả tài sản ngắn hạn và nợ ngắn hạn. Tỷ lệ thanh toán hiện hành đôi còn được gọi là tỷ lệ vốn lưu động.

Công thức

Khả năng thanh toán hiện hành = Tài sản ngắn hạn/ Nợ ngắn hạn

Khoản mục tài sản ngắn hạn trên bảng cân đối kế toán bao gồm các chỉ tiêu tiền và tương đương tiền, các khoản phải thu, hàng tồn kho và các khoản tài sản ngắn hạn khác dự kiến sẽ được thanh lý hoặc chuyển thành tiền trong vòng chưa đầy một năm.

Nợ ngắn hạn là các khoản phải trả, tiền lương, thuế phải nộp, các khoản nợ ngắn hạn và phần nợ dài hạn đến hạn thanh toán.

Hiểu về hệ số

Khả năng thanh toán hiện hành đo lường khả năng của công ty trong việc thanh toán các khoản nợ hiện tại hoặc ngắn hạn (nợ và các khoản phải trả) bằng các tài sản hiện tại hoặc ngắn hạn của công ty.

Trong nhiều trường hợp, một công ty có tỷ lệ thanh toán hiện hành nhỏ hơn 1, tức là công ty không có đủ vốn trong tay để đáp ứng nghĩa vụ nợ ngắn hạn nếu tất cả chúng đều đến hạn cùng lúc, trong khi tỷ lệ thanh toán hiện hành lớn hơn 1 cho thấy công ty có nguồn tài chính để duy trì khả năng thanh toán trong ngắn hạn.

Tuy nhiên, khả năng thanh toán ngắn hạn ở bất kỳ thời điểm nào chỉ là một ảnh chụp nhanh – “snapshot”, nó thường không thể hiện đầy đủ tính thanh khoản ngắn hạn hoặc khả năng thanh toán dài hạn của công ty. Vì không phải lúc nào hàng tồn kho cũng dễ dàng chuyển đổi thành tiền để thanh toán khoản nợ đến hạn dù cho hệ số có lớn hơn 1.

Việc sử dụng hệ số này trong đánh giá tín dụng

Hệ số khả năng thanh toán thường xuyên được sử dụng trong việc đánh giá tín dụng tại các Ngân hàng. Đơn giản bởi vì Ngân hàng quan tâm đến năng lực trả nợ của khách hàng vay, đặc biệt là các khoản vay bổ sung vốn lưu động, ngắn hạn (dưới 12 tháng).

Theo Investopia: https://www.investopedia.com/terms/c/currentratio.asp

Nâng cao hiệu quả quản trị dòng tiền tại các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam

Dòng tiền được xem là yếu tố then chốt tạo sự ổn định trong hoạt động, khả năng chi trả và quyết định sự sống còn của doanh nghiệp (DN). Tại thời điểm thị trường có nhiều biến động như hiện nay, việc quản trị dòng tiền hiệu quả sẽ giúp các DN, đặc biệt là các DNNVV biến thách thức thành cơ hội. Bài viết trình bày một số nội dung liên quan đến quản trị dòng tiền tại các DNNVV cũng như đưa ra một số gợi ý để quản trị dòng tiền hiệu quả tại các DN này.

Tầm quan trọng của quản trị dòng tiền trong doanh nghiệp

Quản trị dòng tiền hay quản lý dòng tiền là hoạt động hoạch định và tổ chức điều khiển để cân đối dòng tiền ra, dòng tiền vào vào theo yêu cầu của hoạt động của DN nhằm tối đa hóa giá trị của DN. Xét theo thời hạn phát sinh dòng tiền có thể chia dòng tiền của một DN thành 2 loại là dòng tiền dài hạn và dòng tiền ngắn hạn.

Quản trị dòng tiền một cách hiệu quả là yêu cầu cực kỳ bức thiết, quyết định trực tiếp đến sự sống còn của cả một DN. Sự thiết hụt tiền mặt ở mức độ nghiêm trọng, ví dụ như khi nợ đến hạn phải trả cho ngân hàng hoặc nhà cung cấp nhưng DN không có tiền mặt sẵn sàng để thanh toán, DN hoàn toàn có thể bị khởi kiện và yêu cầu tuyên bố phá sản.

Ngược lại, sự dư thừa tiền mặt của DN sẽ dẫn đến việc tiền mặt không được sử dụng hiệu quả và đúng lúc, dẫn đến sự lãng phí trong khi DN phải vay vốn ngân hàng hoặc các quỹ tín dụng với lãi suất cao. Điều này một lần nữa sẽ thể hiện sự yếu kém trong hoạt động quản trị tài chính DN.

Chính vì vậy, cần phải có sự hoạch định điều khiển sự vận động ra vào của dòng tiền phát sinh trong quá trình hoạt động đảm bảo sự cân đối giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra trong quá trình hoạt động của DN.

8 mẹo nhỏ để quản lý dòng tiền trong doanh nghiệp - CÔNG TY CỔ PHẦN PHÁT  TRIỂN SJK VIỆT NAM

Khó khăn của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong việc quản trị dòng tiền

Đối với các DNNVV ở Việt Nam hiện nay, trong quản trị dòng tiền còn gặp phải một số khó khăn nhất định như sau:

Thứ nhất, các DNNVV Việt Nam có năng lực quản trị tài chính chưa tốt.

Ở Việt Nam, các DNNVV chiếm khoảng 98% số DN (khoảng 700.000 DN), cung cấp việc làm cho 78% lực lượng lao động và đóng góp 49% vào GDP, và 41% tổng thu ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, hoạt động của các DNNVV gặp rất nhiều khó khăn. Theo thống kê của Cục Quản lý đăng ký kinh doanh (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), mỗi tháng có khoảng 7000 DN đóng cửa, trong đó chủ yếu là DNNVV. Một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là do các DNNVV Việt Nam có năng lực quản trị tài chính yếu: quy mô nhỏ, khả năng huy động vốn còn hạn chế, đầu tư vào tài sản cố định và đầu tư dài hạn còn ít, khả năng quản trị vốn còn nhiều bất cập, khả năng sinh lời thấp.

Thứ hai, nhà quản trị DN thiếu nhiều kỹ năng quan trọng, trong đó có kỹ năng quản trị dòng tiền.

Một trong những nguyên nhân quan trọng khiến cho các DNNVV ở Việt Nam không đứng vững trong một thị trường có quá nhiều biến động đó là nhiều nhà quản trị DN thiếu kỹ năng để quản trị DN hiệu quả, đặc biệt về quản trị tài chính. Nhiều nhà quản trị DN không trực tiếp hoặc không muốn trực tiếp liên quan đến hoạt động quản trị tài chính của DN. Điều này có thể do họ quá quá bận rộn với các hoạt động khác của DN như sản xuất, tìm kiếm thị trường, quản trị nhân sự, hoặc không có kiến thức cũng như không quan tâm đúng mức đến các hoạt động tài chính và quản trị tài chính. Họ dựa nhiều vào bộ phận kế toán của DN, tuy nhiên không phải DN nào cũng có bộ phận kế toán riêng. Rất nhiều DNNVV thuê kế toán bên ngoài để lập sổ sách kế toán của DN, và các sổ sách này chủ yếu phục vụ kế toán thuế.

Thứ ba, tình trạng thiếu vốn là phổ biến đối với các DNNVV tại Việt Nam hiện nay.

Một trong những rào cản lớn nhất cho sự phát triển của các DNNVV là thiếu vốn. Các DN khởi nghiệp thiếu vốn đã đành nhưng các DN đã hoạt động cũng thiếu vốn để mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường. Nhiều DN tăng trưởng tốt, lợi nhuận cao nhưng vẫn thiếu vốn. Vốn là yếu tố quan trọng nhất để tồn tại cho một DNNVV. Nhiều DN nhận thức được rằng kiểm soát dòng tiền hiệu quả là mối quan tâm lớn nhất của họ.

Quản trị dòng tiền là một trong những nội dung quan trọng nhất trong quản trị tài chính của các DNNVV. Tuy nhiên, nhiều DN không phân biệt được lợi nhuận và dòng tiền. Kế toán tổng hợp không tập trung vào dòng tiền, mà tập trung vào thu nhập ròng hoặc lợi nhuận. Nhiều DN có lợi nhuận nhưng vẫn gặp vấn đề về dòng tiền.

Nâng cao hiệu quả quản trị dòng tiền đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa

Để nâng cao hiệu quả quản trị dòng tiền đối với các DNNVV tại Việt Nam, cần chú trọng các nội dung sau:

Một là, chìa khóa quan trọng để quản trị dòng tiền hiệu quả là lập ngân sách và dự báo.

Các DN nên chuẩn bị một kế hoạch tài chính. Thông thường, các DNNVV nên lập kế hoạch ngân sách theo năm bao gồm dự đoán doanh thu và chi phí của DN hàng tháng. Từ nguồn này, các DN sẽ có cơ sở số liệu liên quan đếnthu nhập và dòng tiền ra hàng tháng. Ngân sách dự đoán lợi nhuận của DN, trong khi dự báo dòng tiền dự đoán dòng tiền ròng. Trên cơ sở dự báo dòng tiền, DN sẽ có kế hoạch gọi vốn cho các trường hợp thiếu hụt dòng tiền.

Bất cứ một việc làm gì, để đạt được tác dụng tốt thì điều kiện kèm theo cần là phải có một kế hoạch rõ ràng. Việc sử dụng tiền cũng vậy, để nguồn kinh tế tài chính trong DN được sử dụng một cách tối ưu nhất thì DN cần phải lập kế hoạch dòng tiền định kỳ hàng tháng hoặc hàng quý. Kế hoạch cũng là cơ sở để DN kiểm tra, nhìn nhận được hiệu quả sử dụng tiền, từ đó đưa ra được những giải pháp quản trị dòng tiền đúng đắn. Vì vậy, một trong những nguyên tắc để quản trị hiệu quả dòng tiền trong DN là phải kiến thiết xây dựng được một kế hoạch dòng tiền rõ ràng .

Hai là, DNNVV cân nhắc nguồn huy động.

Khi gặp thiếu hụt tiền mặt, các DN thường có hai lựa chọn: hoặc huy động thêm vốn chủ sở hữu (tức là bỏ thêm tiền của mình vào), hoặc huy động vốn vay từ bên ngoài (ngân hàng, thị trường tài chính). Do hạn chế về việc tiếp cận thị trường tài chính, các DNNVV thường sử dụng vốn chủ sở hữu, ít sử dụng các nguồn vốn chính thức bên ngoài để tài trợ cho hoạt động của mình. Nhiều khảo sát trên thế giới cũng như ở Việt Nam cho thấy, rất nhiều DNNVV trả lời họ không có nhu cầu vay vốn ngân hàng. Theo kết quả khảo sát 996 DN Việt Nam (Enterprise Survey) của World Bank từ 2014 đến 2016, khó khăn về tiếp cận vốn được đánh giá là rào cản lớn nhất của DN, tuy nhiên chỉ có 28,8% DN khảo sát có sử dụng vốn vay ngân hàng.

Khảo sát các DN không đi vay, kết quả cho thấy một tỷ lệ lớn các DN trả lời do không muốn bị nợ và/hoặc cho rằng các khoản vay quá rủi ro. Điều này có thể gợi ý rằng, các DNNVV có thể không nhận thức được lợi ích và việc sử dụng vốn vay hợp lý. Do đó, cần thay đổi nhận thức của các DNNVV về việc sử dụng vốn vay. Nếu sự ác cảm với các khoản vay này không được giải quyết, nó có thể là một trở ngại đáng kể cho sự tăng trưởng của các DNNVV, vì hầu hết các dự án mở rộng đều được tài trợ bằng vốn vay. Thông thường, lợi nhuận không đủ lớn để tài trợ cho các kế hoạch mở rộng và việc chỉ dựa vào nguồn vốn nội bộ có thể kìm hãm sự phát triển của các DN. Hiện nay, chính phủ và các ngân hàng, tổ chức tài chính đã đưa ra nhiều chính sách giúp DNVVN tận dụng nguồn vốn trong kinh doanh, xem thêm các bí quyết giúp DNVVN vay vốn thành công tại đây.

Nguồn: ThS. Nguyễn Thùy Thương, Trường Đại học Công đoàn

** Bài đăng trên Tạp chí Tài chính số kỳ 2 tháng 6/2022

Doanh nghiệp có cần chuyển khoản vay sang ngân hàng mới?

Với đặc thù của mảng tài chính, Doanh nghiệp và Ngân hàng luôn muốn giữ mối quan hệ chặt chẽ và lâu bền. Ngân hàng luôn muốn níu chân những Doanh nghiệp uy tín và Doanh nghiệp cũng muốn tập trung vào 1 nhà cung cấp dịch vụ tài chính để dễ dàng giao dịch hơn. Tuy nhiên, trong một số tình huống, tạm thời rời xa và chuyển ngân hàng là một giải pháp phù hợp cho cả 2 bên.

chuyen_doi_ngan_hang
Chuyển khoản vay sang ngân hàng mới

Những lý do doanh nghiệp muốn chuyển khoản vay sang ngân hàng khác

  • Đảo nợ: có nghĩa là khoản vay đến hạn nhưng doanh nghiệp không trả được, phải vay ngân hàng khác để trả. Đây là mục đích mà Ngân hàng Nhà nước không cho phép, ngoại trừ một số trường hợp như vay kinh doanh nhưng thời gian vay mới không vượt quá thời hạn còn lại của khoản vay cũ. Nhìn chung, nghiệp vụ đảo nợ chính thống là phức tạp và khó áp dụng, không giải quyết được vấn đề thật sự của doanh nghiệp.
  • Không còn phù hợp với ngân hàng đang giao dịch: ngoài việc chính sách cho vay của ngân hàng thay đổi như tăng lãi suất, phí, giảm hạn mức cho vay, nguyên nhân còn đến từ việc thay đổi người quản lý khách hàng hay lãnh đạo phê duyệt khoản vay, khiến 2 bên không còn hiểu nhau nữa. Thậm chí có trường hợp Doanh nghiệp không được tái cấp hạn mức tín dụng, thì buộc phải chuyển sang ngân hàng khác.
  • Để đạt được nhiều lợi ích hơn: ngân hàng mới có lãi suất, phí thấp hơn, mức cho vay trên giá trị tài sản bảo đảm cao hơn (vay được nhiều hơn) hoặc thậm chí ngân hàng mới có thương hiệu mạnh hơn, giúp doanh nghiệp gia tăng uy tín.
  • Ngân hàng cũ hết Room: đây là vấn đề thường gặp vào dịp cuối năm do Ngân hàng đã đạt ngưỡng tăng tưởng tín dụng (được Ngân hàng Nhà nước phê duyệt). Tuy nhiên thời điểm gần đây, tới Quý 3/2022, hầu hết Ngân hàng đều hết Room khiến nhiều doanh nghiệp khó giải ngân kể cả đã có sẵn hạn mức tín dụng.

Chuyển đổi ngân hàng thực hiện như thế nào?

  • Trước hết, Doanh nghiệp cần nộp hồ sơ để Ngân hàng mới thẩm định, xét duyệt khoản vay, bao gồm định giá tài sản bảo đảm (dựa trên giấy tờ bản sao). Thời gian thẩm định thông thường đối với khoản vay ngắn hạn là từ 02 – 04 tuần, tùy thuộc vào thời gian bổ sung hồ sơ và mức độ phức tạp của hoạt động của Doanh nghiệp.
  • Sau khi nhận được cam kết cho vay của Ngân hàng mới, Doanh nghiệp phải trả hết khoản vay cũ bằng cách tự lo dòng tiền trả vào và rút hồ sơ Tài sản bảo đảm (nhà đất, tài sản cố định, và các tài sản khác). Rất nhiều doanh nghiệp mong muốn Ngân hàng mới sẽ hỗ trợ dòng tiền để “mua nợ”, tuy nhiên gặp khó khăn do dễ vướng vào tình huống “Đảo nợ” như đã đề cập ở trên, và rủi ro do Tài sản bảo đảm vẫn có thể vướng tranh chấp bên ngoài (mặc dù đã thế chấp tại ngân hàng rồi).
  • Các thủ tục còn lại khá đơn giản: thế chấp Tài sản bảo đảm với Ngân hàng mới, ký hợp đồng tín dụng và giải ngân đúng mục đích sử dụng vốn theo quy định của Ngân hàng. Thông thường doanh nghiệp phải có hóa đơn, chứng từ hợp lệ (chưa dùng làm mục đích giải ngân ở ngân hàng nào khác) để được giải ngân.

Ngân hàng có sẵn sàng chào đón khách hàng mới?

  • Mỗi Ngân hàng có khẩu vị rủi ro, chính sách ưu tiên khác nhau đối với các phân khúc khách hàng doanh nghiệp (thường phân chia theo doanh thu, ngành nghề). Do vậy, Ngân hàng luôn mong muốn phát triển khách hàng mới và định kỳ điều chỉnh (thay thế) danh mục khách hàng cũ để phù hợp với chiến lược từng thời kỳ.
  • Bên cạnh đó, số lượng Doanh nghiệp đang hoạt động trên toàn quốc khoảng 700.000 doanh nghiệp, trong đó chỉ 300.000 doanh nghiệp có lịch sử vay ngân hàng (theo thống kê của Trung tâm tín dụng quốc gia Ngân hàng Nhà nước – CIC). Đây chính là nhóm khách hàng có tiềm năng chuyển dịch từ ngân hàng này sang ngân hàng khác, trong khi hệ thống các Tổ chức tín dụng có gần 100 Ngân hàng (gồm Nhà nước, TMCP trong nước, 100% vốn nước ngoài, Chi nhánh nước ngoài), dẫn đến cạnh tranh giữa các Ngân hàng để thu hút các Doanh nghiệp tốt.
  • Vấn đề còn lại là Doanh nghiệp có sẵn sàng chuyển sang ngân hàng mới hay không, họ có lo “mất cả chì lẫn chài” nếu việc chuyển đổi thất bại? MicroFund sẽ khiến việc này trở nên thuận tiện và tế nhị hơn, giúp doanh nghiệp tiết kiệm được thời gian đi lại và hạn chế những suy tư không cần thiết. Điểm đặc biệt nhất, đó là đặt khách hàng vào đúng vị trí “Thượng đế”, và Ngân hàng mới là Nhà cung cấp dịch vụ.

Đăng ký tư vấn tại đây: https://www.microfund.vn/#registerForm

Cuối cùng, bí quyết để doanh nghiệp được nhiều ngân hàng khao khát, đó là hoạt động kinh doanh tăng trưởng, hiệu quả, minh bạch. Nhưng đừng quên đa dạng hóa nhà cung cấp dịch vụ tài chính, để giảm rủi ro cũng như đạt được lợi ích xứng đáng nhất.

Quản trị công nợ và quản lý rủi ro tín dụng tại các doanh nghiệp Việt Nam trong bối cảnh hậu Covid 19

nợ thương mại và quản trị công nợ

Tín dụng thương mại, mua hàng trả chậm, nợ gối đầu hay bán hàng công nợ có thể hiểu theo cách tương tự như nhau. Trong đó Doanh nghiệp để gia tăng doanh thu hay mở rộng thị trường sẽ tiến hành bán hàng, cung cấp dịch vụ và thu tiền sau. Hình thức này đòi hỏi năng lực đánh giá người mua và quản trị công nợ.

Bài viết được lấy nguồn từ báo cáo khảo sát của Atradius vào Q2.2022 với 200 Doanh nghiệp Việt Nam, quy mô từ Siêu nhỏ đến Lớn với 5 nhóm ngành: Nông thực phẩm, Hoá chất, Hàng tiêu dùng lâu bền, Thép/Kim loại và Dệt may.

quan-tri-cong-no-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-tai-cac-doanh-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-hau-covid-19

Doanh số bán hàng trả chậm đang tăng trong bối cảnh lo ngại về khả năng thanh toán và thời gian thu hồi tiền hàng.

Giao dịch bán hàng trả chậm với khách hàng B2B đang có xu hướng tăng tại thị trường Việt Nam, với trọng tâm hàng đầu là khuyến khích các khách hàng trung thành và đáng tin cậy hiện có thực hiện giao dịch mua hàng lặp lại.

Hơn nữa, một yếu tố quan trọng liên quan đến vấn đề này là số lượng các công ty được khảo sát có các điều khoản thanh toán tự do hơn đã tăng lên so với trước đây.

Tuy nhiên, gần 50% tổng giá trị doanh số từ việc bán hàng trả chậm B2B vẫn chưa được thanh toán vào ngày đáo hạn, gây ra nguy cơ siết chặt thanh khoản đối với các doanh nghiệp.

Ngoài ra, các doanh nghiệp còn quan tâm đến mức độ các khoản nợ bị xoá vì không có khả năng thu hồi.

Một phần nguyên nhân là do điều khoản thanh toán kéo dài hơn. Gần một nửa số doanh nghiệp được khảo sát cho biết Thời gian thu hồi tiền hàng tồn đọng đang xấu hơn.

Điều này cho thấy cần phải tăng cường quy trình quản lý tín dụng của doanh nghiệp, với các biện pháp khác nhau như: tránh tập trung rủi ro tín dụng và kiểm tra chặt chẽ hơn chất lượng tín dụng của khách hàng.

Một số doanh nghiệp yêu cầu thanh toán tiền mặt khi giao hàng, trong khi những doanh nghiệp khác giảm giá để giải quyết hóa đơn nhanh hơn.

Triển vọng tốt, nhưng cần tập trung vào chiến lược quản trị tín dụng

Các doanh nghiệp ở Việt Nam đang có triển vọng tích cực, bất chấp ảnh hưởng của đại dịch và lo ngại về việc chuỗi cung ứng đang bị đe dọa gián đoạn bởi nền kinh tế toàn cầu

Hầu hết mọi người đều kỳ vọng rằng phương thức thanh toán B2B sẽ được cải thiện trong những tháng tới, trong khi nhiều công ty cũng dự kiến gia tăng bán hàng trả chậm.Đây được xem là dấu hiệu tốt về niềm tin kinh doanh tại thị trường Việt Nam.

Sự cần thiết của một chiến lược quản trị tín dụng mạnh mẽ là nội dung quan trọng

Một số công ty ưu tiên tự quản lý nội bộ ngay cả khi các nguồn lực của họ có nguy cơ quá tải, nhưng ngày càng nhiều công ty cho biết họ đang lựa chọn bảo hiểm tín dụng để bảo vệ năng lực kinh doanh.

Chiến lược này được ghi nhận có nhiều lợi ích, nhằm mục đích bảo vệ doanh nghiệp trước các khoản nợ xấu và nợ khó đòi của khách hàng, bao gồm khả năng tiếp cận thông tin rủi ro chuyên sâu và thông tin thường xuyên về thị trường, đồng thời giúp cải thiện thời gian thu tiềnvà giải phóng vốn lưu động.

Bán hàng trả chậm và các điều khoản thanh toán

47% doanh nghiệp được hỏi cho biết các điều khoản thanh toán được xem xét phù hợp với nguồn hiện hữu và chi phí vốn cần thiết để vận hành doanh nghiệp trong khi chờ khách hàng thanh toán.

Giao dịch bán hàng trả chậm với khách hàng đang gia tăng, tập trung vào lòng trung thành của khách hàng

Các giao dịch bán hàng trả chậm chiếm trung bình 58% trong tổng giá trị giao dịch trong những tháng qua, cho thấy hoạt động thương mại này đóng một vai trò quan trọng tại thị trường Việt Nam.

Gần bảy trong mười công ty, phần lớn từ ngành công nghiệp hàng tiêu dùng lâu bền, cho biết họ chấp nhận bán hàng trả chậm thường xuyên hơn so với trước đây. Khi các yêu cầu bán hàng trả chậm bị từ chối, điều này chủ yếu là do chi phí phải thu và chi phí quản lý không hợp lý.

Giao dịch mua lại với những khách hàng đáng tin cậy là lý do chính để 35% công ty bán hàng trả chậm, và là yếu tố chi phối trong ngành Nông sản thực phẩm nội địa đang cực kỳ cạnh tranh.

Một yếu tố khác thúc đẩy giao dịch trả chậm là vì nó trở thành một nguồn vốn ngắn hạn cho những khách hàng bị thiếu hụt thanh khoản tạm thời, và được sử dụng để thay thế hoặc bổ sung cho các khoản vay ngân hàng.

Ngành thép của Việt Nam, vốn phụ thuộc nhiều vào đầu vào nhập khẩu, cho biết đây là lý do họ thường thực hiện giao dịch trả chậm với khách hàng.

quan-tri-cong-no-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-tai-cac-doanh-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-hau-covid-19
Chú thích ảnh: Tổng quan về các kết quả khảo sát trong ngành Thép/ Kim loại. Nguồn: Atradius.

Doanh số bán hàng trả chậm được thúc đẩy nhờ thời gian thanh toán lâu hơn, và các công ty tìm kiếm công cụ bảo hiểm

Cho dù lý do nào ảnh hưởng đến quyết định bán hàng trả chậm cho khách hàng B2B, thì phần lớn các doanh nghiệp (66%) cho biết họ sẽ cung cấp cho khách hàng các điều khoản thanh toán tự do hơn. Điều này đặc biệt đúng với các công ty ngành hóa chất, họ thường xuyên làm như vậy khi nhận thấy một triển vọng kinh doanh tốt có thể thúc đẩy tăng trưởng doanh số bán hàng.

Các công ty còn lại cho biết họ không thay đổi các điều khoản thanh toán thông thường hoặc cần phải rút ngắn đáng kể thời hạn thanh toán do chất lượng tín dụng của khách hàng bị suy giảm.

Mặc dù kết quả khảo sát cũng cho thấy các phương pháp tiếp cận khác, nhưng thực tiễn các công ty địa phương ở Việt Nam có xu hướng thúc đẩy việc thanh toán hóa đơn nhanh chóng, trong vòng trung bình 30 ngày kể từ khi lập hóa đơn.

Đa số các công ty Việt Nam (60%) cho biết thời gian công nợ trong các điều khoản thanh toán chủ yếu phản ánh thông lệ nội bộ của họ. Điều này thường đúng với các doanh nghiệp nông sản thực phẩm địa phương, tập trung vào việc nuôi dưỡng lòng trung thành của khách hàng.

quan-tri-cong-no-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-tai-cac-doanh-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-hau-covid-19

47% doanh nghiệp cho biết các điều khoản thanh toán thường phù hợp với khả năng và chi phí vốn cần thiết để vận hành doanh nghiệp trong thời gian thanh khoản của công ty bị ràng buộc bởi doanh số bán hàng trả chậm.

Ngành dệt may đã báo cáo điều này một cách đặc biệt và có thể giải thích tại sao các công ty trong ngành coi giá trị của khoản bảo hiểm tín dụng như một công cụ tài chính.

Khách hàng mất khả năng thanh toán (vỡ nợ)

Công nợ chưa được thanh toán và các khoản xóa nợ làm giảm tính thanh khoản của doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp Việt Nam không tránh khỏi sự gián đoạn do đại dịch và môi trường kinh tế toàn cầu bất ổn, cũng như tác động của việc khách hàng không trả được nợ.

48% tổng giá trị doanh số bán hàng B2B của các doanh nghiệp Việt Nam bằng phương thức bán hàng trả chậm vẫn chưa được thanh toán tại ngày đáo hạn.

Một số lượng đáng kể các công ty được hỏi cho biết họ cần các biện pháp để tránh bị mất thanh khoản như: sử dụng nguồn tài chính bên ngoài, thấu chi ngân hàng hoặc trì hoãn thanh toán cho các nhà cung cấp của chính họ. Tuy nhiên, chiếm dụng vốn lại tác động theo chuỗi cung ứng, nên ngay cả những khách hàng có lịch sử thanh toán uy tín cũng có thể bị ảnh hưởng bởi một cuộc khủng hoảng thanh khoản. Do vậy, cần phải có cái nhìn sâu sắc hơn về sức khỏe của khách hàng và nhìn xa hơn trong chuỗi cung ứng.

Một mối quan tâm khác đối với các công ty ở Việt Nam là không thể thu hồi được các khoản nợ xấu, một rủi ro cố hữu trong bán hàng công nợ.

Khảo sát cho thấy việc xóa nợ lên tới 6% tổng số hóa đơn B2B và con số này đạt mức 9% trong ngành thép/kim loại, phản ánh bối cảnh kinh tế và thương mại toàn cầu đầy thách thức hiện nay.

Điều này có thể giải thích cho việc các doanh nghiệp cho rằng họ đang cố gắng cải thiện tình hình bằng cách tăng cường hiệu quả thu hồi công nợ và giảm thiểu chi phí thu hồi nợ.

Khách hàng không có khả năng thanh toán (vỡ nợ) chủ yếu do các vấn đề thanh khoản và các rắc rối quản trị.

70% công ty tin rằng vấn đề thanh khoản là lý do chính khiến khách hàng B2B không trả được nợ.

Điều này đặc biệt được báo cáo trong các ngành dệt/may mặc và hàng tiêu dùng, có thể là do họ hướng mạnh vào xuất khẩu trong khi vị thế tài chính của các khách hàng nước ngoài bị suy yếu vì kinh tế toàn cầu khó khăn. Điều này có thể giải thích tại sao gần một nửa số doanh nghiệp Việt Nam cho biết họ cần tăng cường hơn nữa quy trình quản trị công nợ.

Các biện pháp được đề cập là giám sát chất lượng tín dụng của khách hàng và dành nhiều thời gian và nguồn lực hơn để theo dõi các hóa đơn chưa thanh toán.

Tuy nhiên, sự yếu kém về tài chính của khách hàng không phải là lý do duy nhất dẫn đến mất khả năng thanh toán. 52% công ty cho biết nguyên nhân là do sự kém hiệu quả về mặt quản lý trong quy trình thanh toán của khách hàng, đặc biệt trong ngành nông sản thực phẩm.

Một phần tư số doanh nghiệp cho biết các vụ mất khả năng thanh toán là do tranh chấp với khách hàng, đối với ngành thép/kim loại. Một số còn cố ý chậm thanh toán vì nhiều lý do khác nhau, chủ yếu diễn ratrong ngành dệt may và hóa chất.

Tác động của việc khách hàng không trả được nợ

Do tác động đáng kể của việc khách hàng không trả được nợ, các doanh nghiệp cho biết họ đã nâng cao nhận thức về việc bảo vệ trước những tổn thất không mong muốn. Điều này là để tránh gây nguy hiểm cho tính thanh khoản của doanh nghiệp.

Các doanh nghiệp tập trung vào việc cải thiện đánh giá mức độ tín nhiệm của khách hàng và coi việc này là bước quan trọng. Mục đích là tránh bán hàng trả chậm cho các khách hàng kém chất lượng, đồng thời theo dõi chất lượng tín dụng của khách hàng để dự đoán các dấu hiệu cảnh báo về khả năng vỡ nợ.

Ưu tiên tối đa là tránh tập trung rủi ro tín dụng và kiểm soát tín dụng.

Các chiến lược khác để tăng cường quản lý tín dụng

61% các công ty, đặc biệt trong ngành thép/kim loại, cho biết họ tránh tập trung rủi ro tín dụng vào một khách hàng duy nhất hoặc trên các nhóm khách hàng có cùng đặc điểm.

Nhiều doanh nghiệp tại Việt Nam cho biết họ đã yêu cầu thanh toán tiền mặt khi giao hàng, trong khi những công ty khác tạm ngừng giao hàng cho đến khi được thanh toán hóa đơn, điều này được báo cáo đặc biệt trong ngành Dệt may.

Cần tiếp cận linh hoạt để giảm Thời gian thu hồi công nợ, nhưng vẫn còn nhiều thách thức

47% số công ty cho biết tình trạng thanh khoản của họ suy yếu trong những tháng qua là do Thời gian thu hồi công nợ – là khoảng thời gian từ khi lập hoá đơn đến khi được khách hàng thanh toán ngày càng dài ra.

Hầu hết các doanh nghiệp nói rằng Số ngày thu tiền ngày càng xấu đi chủ yếu xuất phát từ chính sách bán hàng trả chậm với khách hàng B2B và chỉ giãn nợ nhưng thiếu đi phương pháp tránh vỡ nợ. Hiệu quả thu hồi công nợ kéo dài là nguyên nhân chính khiến Thời gian thu tiền xấu đi và suy giảm dòng tiền, đặc biệt trong ngành thép/kim loại.

Các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện một loạt các hành động để giảm thời gian thu tiền và do đó giúp cải thiện dòng tiền. Biện pháp được sử dụng thường xuyên nhất là đàm phán các điều khoản thời hạn thanh toán ngắn hơn.

Bên cạnh đó, một số đưa ra mức chiết khấu để khách hàng thanh toán hóa đơn nhanh hơn – một kỹ thuật được nhiều công ty xuất khẩu trên thế giới sử dụng thành công và rất hấp dẫn đối với khách hàng tiềm năng trong thị trường cạnh tranh.

Quản lý các khách hàng mất khả năng thanh toán

Các doanh nghiệp đang chủ động với chiến lược quản trị rủi ro tín dụng

51% công ty cho biết họ tự thực hiện quản lý rủi ro khách hàng trong những tháng gần đây, trong khi 42% thuê công ty bảo hiểm tín dụng bên ngoài hoặc mua các giải pháp tài trợ thương mại.

Việc duy trì tự quản lý rủi ro tín dụng khách hàng được đặc biệt lưu ý trong lĩnh vực Dệt /May mặc, thường liên quan đến việc trích lập dự phòng để trang trải các khoản lỗ có thể xảy ra. Sự nguy hiểm của chiến lược này là nó làm căng thẳng các nguồn lực và ngăn cản công ty sử dụng những khoản tiền đó để mở rộng hoạt động kinh doanh.

Việc thuê các công ty bảo hiểm tín dụng để quản lý rủi ro tín dụng được các công ty Việt Nam đánh giá là có những lợi ích đáng kể, bao gồm khả năng tiếp cận thông tin chuyên sâu về rủi ro của khách hàng tiềm năng và các dịch vụ như thông tin thị trường thông thường và thu hồi nợ.

Bảo hiểm tín dụng cũng giúp cải thiện Thời gian thu tiền và giải phóng vốn lưu động, được các công ty sản xuất đồ tiêu dùng đặc biệt chú ý.

Một số doanh nghiệp lựa chọn thư tín dụng thường được sử dụng trong kinh doanh hàng hóa, trong khi những doanh nghiệp khác thường sử dụng hình thức chứng khoán hoá khoản phải thu hoặc hình thức bao thanh toán.

Triển vọng kinh doanh (B2B) tại Việt Nam

Niềm tin kinh doanh cao, giao dịch mua bán trả chậm B2B có triển vọng tích cực

Kinh tế Việt Nam có sự phát triển tự tin mạnh mẽ trong những tháng tới.Một phát hiện tích cực trong cuộc khảo sát là tất cả các công ty được thăm dò ý kiến đều mong đợi hoạt động thanh toán của khách hàng B2B sẽ được cải thiện trong tương lai.

Một chỉ số rõ ràng khác về niềm tin kinh doanh được thể hiện qua số lượng đáng kể các công ty dự đoán sẽ mở rộng mạnh mẽ giao dịch bán hàng trả chậm với khách hàng B2B. Điều này là do họ coi lòng trung thành của khách hàng và các giao dịch mua hàng lại từ các khách hàng B2B hiện hữu là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh doanh.

quan-tri-cong-no-va-quan-ly-rui-ro-tin-dung-tai-cac-doanh-nghiep-viet-nam-trong-boi-canh-hau-covid-19
Chú thích ảnh: 5 thách thức doanh nghiệp Việt Nam cần đối mặt năm 2022. Nguồn: Atradius.

Lo ngại về việc Thời gian thu tiền bán hàng ngày càng xấu đi và đối mặt với nhu cầu tăng thêm khi nền kinh tế phục hồi.

Bất chấp dự kiến cải thiện ​​trong thực tiễn thanh toán B2B trong nước, đại đa số các công ty được thăm dò ý kiến ​​(71%) bày tỏ lo ngại về sự suy giảm Số ngày thu tiền của họ do tác động qua lại giữa chính sách tín dụng tự do hơn và hiệu quả thu hồi nợ thương mại thấp hơn – đặc biệt là những vấn đề liên quan đến xuất khẩu.

Trong bối cảnh đó, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam đã có bảo hiểm tín dụng cho chúng tôi biết họ sẽ tiếp tục sử dụng bảo hiểm. Điều này đặc biệt rõ ràng trong ngành hàng tiêu dùng, trong khi nhiều công ty thép / kim loại cho biết họ cũng sẽ xem xét bảo hiểm tín dụng trong những tháng tới.

Sắp tới, 34% công ty Việt Nam được hỏi cho biết mối quan tâm chính của họ là bắt kịp với nhu cầu gia tăng của người tiêu dùng do sự phục hồi của nền kinh tế trong nước, đặc biệt trong ngành dệt may. Ngược lại, đối phó với những tác động liên tục của đại dịch là một mối lo lớn trong ngành công nghiệp đồ tiêu dùng.

30% số doanh nghiệp khác, chủ yếu trong ngành nông sản thực phẩm, bày tỏ lo ngại về sự sụt giảm nhu cầu tiềm năng đối với các sản phẩm và dịch vụ của họ. Trong khi đó một phần tư số công ty trên tất cả các ngành được thăm dò lo lắng về sự gián đoạn chuỗi cung ứng ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh.

Nguồn: Báo cáo của Atradius. Đọc tài liệu gốc tại đây.

Dịch bởi: Microfund.

Nhu cầu vốn lưu động: Làm thế nào để tính toán đơn giản và chính xác?

Doanh nghiệp nhỏ cần xác định rõ nhu cầu vốn lưu động hàng năm. Việc này giúp tính toán mức vay vốn cụ thể và đạt hiệu quả tối ưu. Đây cũng là cơ sở để thương lượng với các Ngân hàng và Bên cấp vốn khác.

Nhu cầu vốn lưu động doanh nghiệp nhỏ
Designed by Racool_studio / FreepikFinance. Accounting documents on the table

Các Doanh nghiệp nhỏ và vừa có vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam có tới 95% doanh nghiệp là các doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Đáng chú ý, tài chính của họ có cơ cấu vốn tạo nên tài sản ngắn hạn hình thành một cách ngẫu nhiên và thụ động.

Cơ cấu vốn doanh nghiệp

Cơ cấu vốn doanh nghiệp mô tả nguồn gốc và phương pháp hình thành nên nguồn vốn để tài trợ cho tài sản ngắn hạn, có thể biểu diễn 04 dạng hình thái như sau:

1. Cơ cấu vốn Không xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng.

Cơ cấu vốn Không xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng

2. Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, nhưng quy mô không đáng kể.

Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, nhưng quy mô không đáng kể

3. Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, quy mô cao hơn so với nguồn vốn Phi ngân hàng

Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, quy mô cao hơn so với nguồn vốn Phi ngân hàng

4. Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, và mức độ biến động thường xuyên

Cơ cấu vốn xuất hiện nhu cầu vốn vay Ngân hàng, và mức độ biến động thường xuyên
1000

Những điều rút ra từ các hình thái cơ cấu vốn doanh nghiệp

1. Nguồn vốn tài trợ cho Tài sản ngắn hạn đến từ 2 nguồn chính:

  • Vốn phi tín dụng ngân hàng: nợ thương mại, vay mượn người thân, bạn bè,…
  • Vốn tín dụng ngân hàng: vay ngân hàng.

2. Giá trị tài sản ngắn hạn là một đại lượng biến động liên tục theo thời gian

Và chịu tác động bởi 3 yếu tố chính:

  • T: Yếu tố xu thế (Trend)
  • S: Yếu tố mùa vụ (Seasonality)
  • I: Yếu tố bất quy tắc (Irregular)

Với 2 mô hình phổ biến sau:

Mô hình Cộng: Giá trị TSNH = T + S + I

Mô hình Nhân: Giá trị TSNH = T x S x I

Như vậy, giá trị Tài sản ngắn hạn là một đại lượng luôn luôn biến động theo thời gian và chịu tác động bởi 3 yếu tố bất quy tắc. Cho nên, vấn đề dự báo để làm căn cứ xây dựng cơ cấu nguồn vốn, gồm vốn vay ngân hàng là khá phức tạp.

Các ngân hàng đang phục vụ nhu cầu vay vốn ngắn hạn như thế nào?

Do tính phức tạp nêu trên, hầu hết các Ngân hàng mất nhiều thời gian và công sức cho việc thẩm định hồ sơ tín dụng doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ. Đồng thời, nhiều kỹ thuật cho vay được các Tổ chức tín dụng thiết lập nhằm phục vụ đúng nhu cầu biến động này.

Các kỹ thuật cho vay của ngân hàng

Cho vay hạn mức tín dụng

Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi đề cập đến Cho vay theo Hạn mức tín dụng. Đây là kỹ thuật cho vay phổ biến để phục vụ nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp nhỏ tại hầu hết các Ngân hàng như Vietcombank, BIDV, ACB hay OCB.

MicroFund đã thống kê các phương pháp xác định hạn mức tín dụng mà các Ngân hàng tại Việt Nam áp dụng từ trước đến nay như sau:

  • Phương pháp vốn lưu động ròng phải tham gia 1 tỷ lệ tối thiểu tính trên phần chênh lệch giữa tài sản ngắn hạn và tài sản nợ lưu động phi ngân hàng (gọi là tỷ lệ tham gia).
  • Phương pháp VLĐ ròng phải tham gia một tỷ lệ tối thiểu so với tổng tài sản lưu động.
  • Phương pháp VLĐ của người đi vay phải tham gia một tỷ lệ tối thiểu so với tổng tài sản lưu động chưa có quỹ dài hạn bù đắp.
  • Phương pháp phần trăm theo doanh thu.
  • Phương pháp phần trăm theo giá trị tài sản bảo đảm.
  • Phương pháp dựa vào chu kỳ vận động của vốn lưu động.
  • Phương pháp lập bảng cân đối kế toán mẫu.
  • Phương pháp dự báo dựa vào chu kỳ vận động của vốn.
  • Phương pháp dự báo dòng tiền.

Hạn mức tín dụng Ngân hàng có đảm bảo đủ Nhu cầu vốn lưu động cho doanh nghiệp?

Kết quả xác định giá trị hạn mức tín dụng bằng các phương pháp trên cũng chỉ là căn cứ tham chiếu để thương lượng với người vay. Và tất nhiên tại mỗi thời điểm, hạn mức tín dụng này có thể cao hơn hoặc thấp hơn nhu cầu vốn thực tế để tài trợ tài sản ngắn hạn.

Tuy nhiên, theo quan sát của chúng tôi, phần lớn mức tài trợ thấp hơn nhu cầu thực tế của Doanh nghiệp. Đó chính xác là lý do tại sao hầu hết Doanh nghiệp tại Việt Nam luôn chê các Ngân hàng cho vay không đủ.

Quyền lực thương lượng của Doanh nghiệp sẽ là Giá trị tài sản (bất động sản, xe cộ, máy móc thiết bị, hàng hoá, khoản phải thu,…). Ngân hàng sẽ căn cứ vào Tỷ lệ cho vay/ Giá trị tài sản bảo đảm, ví dụ cho vay 70% giá trị tài sản, để tính toán ngược lại Hạn mức tín dụng, nhằm giữ chân khách hàng.

Nhu cầu vốn lưu động: cách tiếp cận mới dựa trên dữ liệu và công nghệ

MicroFund đã nghiên cứu phương pháp tính toán nhanh dựa trên dữ liệu lớn và công nghệ.

Hạn mức tín dụng: tính toán nhanh
HMTD: hạn mức tín dụng
  • X1: Giá trị hàng tồn kho năm nay
  • X2: Nợ phải trả năm nay
  • X3: Vốn chủ sở hữu năm nay
  • X4: Doanh thu năm nay
  • X5: Doanh thu năm kế hoạch

Ví dụ cụ thể:

  • Giá trị hàng tồn kho năm nay: 4.890 triệu đồng
  • Nợ phải trả năm nay:                 5.675 triệu đồng
  • Vốn chủ sở hữu năm nay:         3.500 triệu đồng
  • Doanh thu năm nay                 14.231 triệu đồng
  • Doanh thu năm kế hoạch:      16.000 triệu đồng

Kết quả tính toán Hạn mức tín dụng: Từ 2.747 đến 2.815 triệu đồng

Làm thế nào để tính toán nhanh, chỉ trong vài giây?

Mục đích của chúng tôi là tiết kiệm thời gian cho ngân hàng trong công tác thẩm định tín dụng doanh nghiệp, từ đó Doanh nghiệp nhỏ sẽ được phục vụ nhanh hơn, kịp thời cho các cơ hội kinh doanh. Tuy nhiên, mọi việc tính toán phức tạp sẽ trở nên vô nghĩa nếu không thể hỗ trợ Ngân hàng và Chủ doanh nghiệp ngay lập tức.

Chúng tôi đã chuẩn bị sẵn công cụ tính toán toán nhanh trên website để hiện thực hoá nhu cầu này.

https://www.microfund.vn/#nhu-cau-von-luu-dong

Nhu cầu vốn lưu động: tính toán nhanh trên website microfund
https://www.microfund.vn/#nhu-cau-von-luu-dong
nhucauvonvay

MicroFund

Trái phiếu doanh nghiệp: ”Cần tăng cường minh bạch thông tin và hình thành kênh giao dịch thứ cấp”

Quy mô thị trường trái phiếu đang ngày càng lớn, đòi hỏi về sự phát triển bền vững cho thị trường theo đó cũng ngày càng trở nên cấp thiết. Xung quanh vấn đề này, VietnamFinance đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinGroup.

Theo thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), giá trị trái phiếu phát hành trong nửa đầu năm 2020 thông qua kênh trái phiếu riêng lẻ lên đến 156.327 tỷ đồng. Riêng tháng 6, giá trị phát hành riêng lẻ đạt 42.473 tỷ đồng, bật tăng mạnh so với các tháng liền trước. Đây cũng là tháng có quy mô huy động lớn thứ hai trong các tháng kể từ khi bắt đầu ghi nhận số liệu thống kê từ HNX hồi tháng 8/2019, chỉ đứng sau giá trị phát hành vào tháng 12/2019.

– Dữ liệu từ HNX cho thấy 6 tháng đầu năm 2020, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành tăng 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo ông, điều gì đã thúc đấy sự tăng trưởng ấn tượng này, cả từ phía người mua và từ phía người bán?

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinGroup: Theo tôi có 3 điểm chính thúc đẩy sự tăng trưởng này. Thứ nhất là ở góc độ các đơn vị phát hành, mặc dù nhìn chung trong quý I và quý II, quy mô đầu tư vào tài sản cố định (CAPEX) của các doanh nghiệp có giảm nhưng nhu cầu vốn vẫn rất lớn, đặc biệt là ngành bất động sản.

Thứ hai là định hướng của chính phủ và ngành ngân hàng là giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn nhằm giảm áp lực cho ngành ngân hàng, đẩy sang cho kênh trái phiếu. Điều đó tốt vì khủng hoảng lần trước là do cho vay phi tài chính, trong đó cho vay bất động sản là chính. Các doanh nghiệp bất động sản khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến các ngân hàng.

Thứ ba là ở góc độ nhà đầu tư cá nhân. Họ thích kênh đầu tư nào có lợi suất cao và quan trọng là họ có tiền. Thay vì gửi tiết kiệm 4-5%/năm, chơi chứng khoán quốc tế, vàng, bạc, dầu, thậm chí cá độ, lô đề…, đầu tư bất động sản thì phức tạp hơn vì phải đánh giá thị trường, họ đẩy sang kênh đầu tư có lãi suất danh nghĩa 8-9%/năm, thậm chí 10-12%/năm.

3 điểm đó tổng hòa, phản ánh sự gia tăng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp trong những năm vừa qua, đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm nay.

Tuy nhiên, bên cạnh lợi nhuận thì cũng cần lưu ý vế sau là rủi ro. Điều này đặt ra vấn đề hình thành thị trường trái phiếu thứ cấp và minh bạch thông tin. Cũng như cổ phiếu, nhu cầu thanh khoản cho trái phiếu cũng quan trọng.

– Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp ngày càng lớn phần nào cho thấy nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp là rất lớn. Ông có cho rằng kênh trái phiếu doanh nghiệp trong tương lai có thể trở thành đối trọng thực sự của kênh ngân hàng trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp hay không?

Tôi nghĩ là đương nhiên. Kênh trái phiếu doanh nghiệp là đối trọng, là một “chân kiềng” rất cần thiết cho thị trường vốn. Tất nhiên không có nghĩa là ngân hàng không cung cấp vốn trung và dài hạn nhưng tỷ lệ, cơ cấu phải đảm bảo an toàn hệ thống.

Ở các nước trong khu vực và trên thế giới, tùy mức độ phát triển khác nhau, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đa phần có quy mô lớn, thậm chí lớn hơn cả thị trường cổ phiếu nếu ở các nước phát triển.

Tại Việt Nam, nếu tính theo giá trị phát hành và đang lưu hành hàng năm thì quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang ở mức cỡ khoảng 10-11% GDP, trong khi thị trường cổ phiếu đang ở mức khoảng 80% GDP.

– Theo ông, có thuận lợi và rào cản gì trong việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để kênh này trở thành đối trọng thực sự về quy mô so với kênh ngân hàng?

Thuận lợi là mức độ phát triển của thị trường đang rất thấp và nhu cầu thực sự là có, điều đó thể hiện ngay ở số liệu phát hành thời gian qua.

Rào cản thì khá nhiều. Thứ nhất là về thị trường thứ cấp. Chúng ta phải tạo thanh khoản cho trái phiếu doanh nghiệp. Điều đó tốt cho cả công ty chứng khoán và các đơn vị bảo lãnh. Vốn của công ty chứng khoán có hạn, vốn của ngân hàng cũng có hạn, không thể phát hành ra thị trường và cam kết bảo lãnh mãi được.

Mua lại cũng rất rủi ro, nếu giá thị trường của trái phiếu về 0 khi doanh nghiệp phá sản thì liệu đơn vị bảo lãnh có đủ vốn để mua lại không? Quy mô nhỏ như hiện tại thì có thể nhưng nếu gấp đôi mức này thì hệ lụy có thể lây sang cả ngân hàng và công ty chứng khoán – những đơn vị đứng ra bảo lãnh.

Thế nên, phải có thị trường thứ cấp.

Rào cản thứ hai liên quan đến nhà đầu tư cá nhân.

Nhà đầu tư cá nhân chuyển từ tiết kiệm sang mua trái phiếu, một phần vì các đơn vị phân phối, bao gồm ngân hàng và công ty chứng khoán thuyết phục họ. Vấn đề là lãi suất cao thì rủi ro đi kèm thế nào, doanh nghiệp nào phát hành, sức khỏe doanh nghiệp đó ra sao, định hạng tín nhiệm ở mức nào, thanh khoản trái phiếu tốt hay không…, đa phần nhà đầu tư cá nhân không biết.

– Thống kê của Công ty Chứng khoán SSI cho thấy, tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân mua trực tiếp trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp trong 6 tháng đầu năm lên tới 15%, trong khi năm 2019 trung bình chỉ 10%, cho thấy kênh trái phiếu doanh nghiệp đang ngày càng hấp dẫn nhà đầu tư cá nhân. Mặt khác, cơ quan quản lý lại liên tục cảnh báo nhà đầu tư cá nhân không nên mua trái phiếu doanh nghiệp chỉ vì lãi suất cao. Là người nghiên cứu kỹ về các mô hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp trên thế giới, ông có thể chia sẻ về điều này? Tại các thị trường khác, tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân tham gia có lớn hay không?

Theo tôi được biết thì tùy nước. Có những nước như Nhật chỉ chủ yếu là nhà đầu tư tổ chức. Malaysia thì kết hợp cả nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, Thái Lan cũng vậy. Nhưng với Trung Quốc và tôi nghĩ rằng với cả Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn phải hướng đến nhà đầu tư cá nhân.

Đương nhiên, thị trường vốn sẽ dần hình thành và chuyển vốn sang các kênh quản lý chuyên nghiệp, trong đó có quỹ đầu tư trái phiếu (bond fund). Thế nhưng phải chấp nhận thực tế là 5, 10 năm nữa, sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân vẫn rất phổ biến.

Luật chứng khoán sửa đổi đã phân định ra nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư cá nhân. Điều đó rất tốt. Cùng với đó, có các ràng buộc cho các đơn vị phát hành, phân phối trái phiếu doanh nghiệp cũng là một sự thay đổi rất kịp thời.

Thế nên, hạ tầng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp phải đi theo. Chẳng hạn, công bố thông tin, định hạng tín nhiệm… phải được thực hiện vì nhà đầu tư trái phiếu khác nhà đầu tư cổ phiếu. Nhà đầu tư cổ phiếu còn được đi họp cổ đông một năm một lần, còn được đọc công bố thông tin rất đầy đủ, nhưng nhà đầu tư trái phiếu thì không được như vậy.

Do đó, chuẩn hóa công bố thông tin để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trái phiếu là cực kỳ quan trọng. Khi bạn gửi tiền, bạn được đảm bảo bởi các quy định rất chặt của ngân hàng, bởi bảo hiểm tiền gửi nhưng mua trái phiếu thì không được bảo đảm như vậy. Trong khi đó, công bố thông tin còn khá mù mờ, cần cải thiện.

Một rào cản nữa liên quan đến an toàn hệ thống. Đối với ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cơ bản quản lý được, nắm được những rủi ro trên thị trường. Trái phiếu thì khó khăn hơn, thậm chí nhìn thấy rủi ro nhưng khó xử lý.

Ví dụ ngân hàng cho vay thì còn có thể đảo nợ, sắp xếp xoay vòng vốn, hoặc có biện pháp kỹ thuật để tái cấu trúc. Còn với hàng chục nghìn nhà đầu tư trái phiếu chuyển từ tiết kiệm sang, đến một ngày họ không nhận được lãi, gốc thì mới tá hỏa tìm doanh nghiệp phát hành, lúc đó có thể lại kéo nhau đến ngân hàng giống như những vụ condotel vừa qua.

– Rất nhiều người khi chuyển từ tiết kiệm sang mua trái phiếu, thậm chí họ còn không phân biệt được 2 kênh đầu tư này…?

Đó là vấn đề về minh bạch thông tin sản phẩm. Đó là trách nhiệm của đơn vị phân phối và trực tiếp là các nhân viên đi tư vấn đầu tư, bán hàng. Điều này cho thấy quy chuẩn môi giới trái phiếu phải được hoàn thiện. Giống như môi giới chứng khoán, môi giới trái phiếu cũng phải được đào tạo, cấp chứng chỉ.

Nhìn chung, cơ quan quản lý cần tăng cường giám sát, tránh để các tổ chức, cá nhân làm không chuẩn chỉnh.

Theo tôi, bây giờ là lúc phải hành động. Không nên để đến lúc quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp quá lớn, xảy ra nhiều vụ như condotel vừa rồi thì xử lý là rất muộn, bởi chính sách bao giờ cũng có độ trễ. Nếu bắt tay làm ngay bây giờ thì 3, 5 năm sau, nếu xảy ra vấn đề thì cũng chỉ là lốm đốm và xử lý được. Nếu không làm, đến lúc quy mô thị trường lớn, cá nhân đã mua nhiều thì tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Hiện thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam còn mới, đương nhiên tạo điều kiện phát triển là tốt nhưng quy mô cũng đã đến 10-11% GDP thì phải khẩn trương, kịp thời có các biện pháp để phát triển bền vững… Nếu để phát triển đến cỡ 70% GDP, quả bóng đã rất to thì không cần kim sắt, chỉ cần chạm nhẹ là có thể nổ.

Theo: Tùng Lâm – Vietnamfinance.vn

https://bit.ly/3eZ9t5h

Trái phiếu doanh nghiệp là xu hướng tất yếu

Trái phiếu doanh nghiệp có quy mô tăng trưởng bình quân tới 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến 6 tháng năm 2020. Và với kết quả trên, quy mô thị trường này đã vượt xa mục tiêu 7% GDP vào năm 2020 mà Chính phủ từng tính toán trước đây.

Tình hình phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) 6 tháng đầu năm 2020

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vừa công bố, xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2019 tiếp tục thể hiện, ngay cả trong bối cảnh có ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Cụ thể, tổng cộng đã có 818 đợt phát hành của 130 doanh nghiệp, với tổng giá trị phát hành đạt 156,32 nghìn tỷ đồng, tương đương với khoảng 6,7 tỷ USD, trong nửa đầu năm nay. So với cùng kỳ 2019, tốc độ tăng trưởng ghi nhận lên tới gần 50%, thậm chí có thể sẽ còn cao hơn do các thông tin phát hành vẫn được công bố và cập nhật sau đó.

Tính toán của Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho thấy, tổng lượng TPDN lưu hành ước khoảng 783.000 tỷ đồng, tương đương 12,8% GDP lũy kế 12 tháng gần nhất..

Vì sao tăng trưởng mạnh mẽ?

Mặc dù liên tục tăng trưởng nhanh, đặc biệt hai năm gần đây, nhưng thị trường TPDN Việt Nam vẫn được xem còn mới. Cũng chính những nhân tố mới đã kích thích sự mở rộng mạnh mẽ này. TPDN đã có thâm niên hàng chục năm trên thị trường Việt Nam. Nó cũ với các ngân hàng thương mại (NHTM) – đối tượng nắm giữ chủ yếu và truyền thống. Nhân tố mới và kích thích ở đây khi thị trường này có thêm các chủ thể khác tham gia.

Báo cáo năm 2018 của Công ty Chứng khoán VCBS từng lưu ý rằng: đã có sự chuyển dịch nắm giữ TPDN sang các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư. Đây cũng là một cú hích chính yếu, khi làn sóng dịch chuyển cơ cấu danh mục thể hiện do cơ hội đầu tư vào trái phiếu Chính phủ (TPCP) không còn hấp dẫn như trước. Thực tế, từ năm 2016 sang 2017, rồi đặc biệt trong 2019 và nửa đầu 2020, lãi suất TPCP liên tục giảm mạnh và sâu.

Nếu như khoảng 5 năm trước, TPCP kỳ hạn 10 năm phải căng lãi suất lên cỡ 7%/năm để huy động thành công, thì đến 2019 và hiện chỉ còn quanh 2,7%/năm.Nói cách khác, TPDN trở thành một điểm đến mới trong nhu cầu đa dạng danh mục đầu tư của các tổ chức tài chính. Nguồn cung cũng gia tăng nhanh chóng.

Nhìn lại, giai đoạn trên cũng là yêu cầu đặt ra căng thẳng trong thực hiện chính sách siết dần giới hạn dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn tại các NHTM. Nguồn tín dụng trung dài hạn trở nên hạn hẹp, hoặc phải đánh đổi với lãi vay cao. Nhiều doanh nghiệp sử dụng công cụ trái phiếu, tạo hàng như một giải pháp, phản ứng tạo cung trên thị trường, đặc biệt ở lĩnh vực bất động sản.

Thêm nữa, một thị trường hiện đại hơn dần hình thành. Mô hình ngân hàng kết nối đầu tư, các quỹ đầu tư trái phiếu, công ty chứng khoán bảo lãnh thanh khoản… phát triển dần. Ở đây, sức hút đối với sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân bắt đầu thể hiện.

Từ một sản phẩm gần như tuyệt đối chỉ dành cho tổ chức, TPDN những năm gần đây đã mở rộng sang nhóm khách hàng cá nhân. Tỷ trọng nắm giữ của họ qua thị trường sơ cấp đã lên tới 9,4% cuối năm 2019, rồi tăng mạnh lên khoảng 27% nửa đầu năm nay.

Quy mô đó còn lớn hơn nhiều nếu thống kê thêm tỷ trọng thứ cấp, các tổ chức mua qua sơ cấp rồi phân phối lại cho nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư cá nhân – nhân tố mới đã và đang góp thêm lực đẩy cho xu hướng mở rộng mạnh mẽ của thị trường TPDN.

Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều yếu tố hậu thuẫn

Như trên, TPDN trở thành một điểm đến trong nhu cầu đa dạng danh mục đầu tư, khi lãi suất TPCP kém hấp dẫn. Chênh lệch lãi suất ở đây cũng chính là lực hút các nhà đầu tư cá nhân.

Theo thống kê của SSI, tính bình quân gia quyền theo giá trị phát hành năm 2019, lãi suất TPDN trung bình toàn thị trường là 8,8%/năm. Song, trong 2019 và hiện nay có khá nhiều TPDN lãi suất từ 10 – 11%/năm, cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi ngân hàng. Trong đó, một cấu phần phát hành lớn, chiếm lớn nhất tại nhiều thời điểm thống kê, là trái phiếu của các NHTM. Chênh lệch lãi suất ở đây hấp dẫn, trong khi mức độ rủi ro được so sánh như gửi tiền ở chính ngân hàng – nhà phát hành trái phiếu.

Chênh lệch lãi suất cũng chính là điểm đang hậu thuẫn cho TPDN

Hậu thuẫn này có nền tảng là thanh khoản hệ thống NHTM đang dồi dào, dự báo tiếp tục thuận lợi trong 6 tháng cuối năm khi NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng, chưa kể khả năng cơ quan này trở lại mua vào ngoại tệ và tạo thêm nguồn tiền cung ứng. Trong khi đó, tín dụng tăng trưởng thấp và chậm.

Những diễn biến trên đã và đang được cụ thể hóa bằng đà sụt giảm của lãi suất huy động VND. Chênh lệch có lợi cho lãi suất TPDN theo đó càng tạo thêm sức hút nhà đầu tư. Nhìn gần thêm một chút nữa, tháng 10/2020 cũng đang đến – thời điểm thực hiện hạ thêm một nấc giới hạn dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các NHTM.

Nguồn cung trái phiếu và sự sôi động dự báo sẽ nối tiếp, khi các NHTM cũng có nhu cầu sử dụng công cụ này để cân đối vốn đầu vào trung dài hạn… Tuy nhiên, có khả năng NHNN sẽ lùi mốc hẹn siết lại này thêm 6 tháng hoặc 1 năm. Dữ liệu so sánh tại thời điểm tháng 9/2019, TPDN chiếm tỷ trọng lớn tại các thị trường phát triển như Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông…

Mạnh mẽ nhưng còn sơ khởi, xu hướng mở rộng là tất yếu

Từ trong năm 2019, trước xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường TPDN, Bộ Tài chính đã lên tiếng cảnh báo rủi ro tiềm ẩn, nhất là đối với sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân. Năm 2020, sau quý I xu thế mở rộng tiếp tục thể hiện, có hơi hướng mạnh hơn, Bộ Tài chính liên tiếp có thêm cảnh báo.

Tuy vậy, ngay cả khi đã đạt quy mô khoảng 12,8% GDP, trong một báo cáo đầu năm nay, khối phân tích của SSI vẫn cho rằng thị trường TPDN Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khởi. Bởi lẽ, cân đối thị trường tài chính Việt Nam vẫn như “đảo ngược” so với các thị trường phát triển. Cụ thể, tại các thị trường phát triển, tỷ lệ tín dụng trên GDP thấp, ngược lại tỷ lệ trái phiếu trên GDP áp đảo; còn tại Việt Nam thì ngược lại với chênh lệch quá lớn.

Theo thống kê của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tổng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam (gồm cả TPCP và TPDN) tại 30/9/2019 là 95,37 tỷ USD, tương đương 37,6% GDP – là mức tương đương với Philippines nhưng còn cách khá xa Trung Quốc, Thái Lan (xấp xỉ 60% GDP). Các nước càng phát triển thì tỷ trọng kênh trái phiếu trên GDP càng lớn như Nhật Bản là 214% GDP, Hàn Quốc là 120% GDP.

Đặt trong tương quan đó, SSI cho rằng, thị trường trái phiếu, đặc biệt là TPDN, mở rộng là xu hướng tất yếu và phù hợp để tạo sự cân bằng và nâng cao chất lượng thị trường tài chính. Đi cùng xu thế này, TPDN tạo một kênh dẫn vốn trung dài hạn, giảm tải gánh nặng đáp ứng từ hệ thống NHTM – những đầu mối chủ yếu cung cấp dịch vụ tài chính, thanh toán và cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp mà thôi.

Huy động và cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt ở nhu cầu trung dài hạn. Với xu thế phát triển mạnh mẽ trên, TPDN đang từng bước bóc tách bớt rủi ro ra khỏi bảng cân đối của các NHTM, trở thành một phân khúc mới theo khẩu vị của các chủ thể tham gia thị trường.

Sự phát triển nhanh của thị trường TPDN hiện nay tiềm ẩn những rủi ro nhất định

Như trên, Bộ Tài chính đã liên tiếp khuyến cáo. Và vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 81, với những quy định chặt chẽ hơn về điều kiện phát hành, cơ chế thông tin và minh bạch, tần suất và quy mô phát hành, quy định kiểm toán…, để một mặt bắt nhịp và uốn nắn thị trường phát triển lành mạnh và bền vững, mặt khác tăng cường khung khổ bảo đảm an toàn hơn cho nhà đầu tư.

MINH ĐỨC

https://bizlive.vn/tai-chinh/da-co-nhung-thang-thot-nhung-trai-phieu-doanh-nghiep-la-xu-huong-tat-yeu-3548871.html