Archives July 2020

Vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ online?

vay tin chap doanh nghiep

Vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ là sản phẩm ít phổ biến tại Việt Nam, còn đối với việc thực hiện sản phẩm này hoàn toàn online thì gần như chưa có ngân hàng nào tại Việt Nam triển khai được.

vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ

Với sự ảnh hưởng của COVID-19, nhiều doanh nghiệp kích hoạt chương trình làm việc tại nhà (WFH – Work from home).

Một mặt, sự thay đổi tạo ra nhiều thách thức so với cách thức quản lý truyền thống, nhưng lại mở ra cơ hội chưa từng có để chuyển đổi quy trình cung ứng và sử dụng sản phẩm dịch vụ từ off-line lên online.

Đối với ngành dịch vụ tài chính: ngân hàng và Fintech

Dịch vụ tài chính ngân hàng là một trong những ngành đi đầu trong ứng dụng công nghệ, đã rất thành công trong số hoá quy trình thanh toán, nhưng vẫn còn nhiều thách thức trong số hoá quy trình tín dụng, đặc biệt là quy trình thẩm định tín dụng Doanh nghiệp, và khó hơn nữa khi khoản vay là tín chấp.

Về phía ngân hàng, để khách hàng đăng ký vay online rất dễ, chỉ cần khai báo thông tin, upload hồ sơ, nhưng cuối cùng vẫn phải chuyển qua off-line gặp gỡ khách hàng, đối chiếu hồ sơ bản chính và thẩm định thực tế. Quy trình cần 1 hoặc thậm chí 2 nhân sự ngân hàng tham gia, với thời gian giải quyết hồ sơ từ 1 – 2 tuần.

Mô hình này rất ổn cho các khoản vay từ 1 – 3 tỷ, nhưng chưa hiệu quả về mặt chi phí khi áp dụng cho các Doanh nghiệp nhỏ vay chỉ vài trăm triệu đồng. Giả định doanh nghiệp nhỏ vay tín chấp là nhiều, với dung lượng thị trường đủ hấp dẫn, thì việc thiết kế quy trình riêng cho phân khúc này là hợp lý.

Chúng tôi ước tính thị trường vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ có thể lên tới 30 tỷ USD (lớn hơn tổng cho vay của Ngân hàng Nông nghiệp Agribank). Nhu cầu của các món vay “nhỏ lẻ” này không thể tiếp cận các kênh nhận vốn khác như thị trường chứng khoán hay trái phiếu (kể cả trường hợp phát hành trái phiếu đơn lẻ).

Cho vay tín chấp doanh nghiệp: cần quy trình tinh gọn để có thể chuyển dịch lên online

Quy trình thẩm định tín dụng vẫn luôn là việc khó khăn nhất

Việc thẩm định Doanh nghiệp có thể làm gần như online toàn bộ, từ xác minh danh tính (qua hoá đơn điện nước, selfie, chia sẻ location,…) hay sử dụng luôn dịch vụ eKYC do nhiều đối tác thực hiện, cho đến đánh giá hồ sơ pháp lý qua Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp, Tổng cục Thuế.

Đối với dữ liệu tài chính, có thể dựa trên Báo cáo tài chính nộp thuế xuất từ iTaxViewer có chữ ký điện tử, sao kê tài khoản ngân hàng; và công cụ mạnh mẽ của ngành Ngân hàng là Báo cáo tín dụng do Trung tâm tín dụng Quốc gia – Ngân hàng Nhà nước (CIC) cung cấp.

Tuy nhiên, kể cả khi các thông tin được khách hàng nộp online và đã được đối chiếu và xác thực online, thì việc ra quyết định cho vay cũng cần dựa trên mô hình chấm điểm tín dụng khoản vay hay xếp hạng tín dụng doanh nghiệp. Các mô hình này cần xây dựng dựa trên các dữ liệu thu thập được và giảm thiểu hoặc loại bỏ các ý kiến chủ quan của chuyên gia phê duyệt.

Ký kết hợp đồng tín dụng và giải ngân

Sau khi cấp hạn mức vay vốn, việc ký hợp đồng có thể thực hiện online bằng chữ ký điện tử, và giải ngân chuyển khoản dựa trên lịch sử giao dịch với các nhà cung cấp thường xuyên trên sao kê của khách hàng.

Trong quy trình đã tương đối chặt chẽ này, rất nhiều điểm tiếp xúc có thể khởi đầu cho việc bán chéo sản phẩm như chi lương, mở thẻ, mua bán ngoại tệ, phát hành bảo lãnh,… và các bên tham gia hoàn toàn tiết kiệm được các cuộc gặp gỡ không cần thiết.

Vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ online: những giá trị nhận được

Một khi Tổ chức tín dụng đã chuyển đổi số thành công quy trình vay tín chấp doanh nghiệp, thì giá trị nhìn thấy rõ rệt. Chi phí vận hành bao gồm tiếp cận, thu thập hồ sơ, tái thẩm định và ký kết hợp đồng ngay lập tức giảm xuống từ 50% – 70%, tương tự như lợi thế chi phí khi mua hàng online. Quan trọng hơn hết là trải nghiệm khách hàng về một ngân hàng hiện đại, xoá bỏ đi hình ảnh khó khăn, phức tạp, thiếu minh bạch.

Về phía khách hàng, chi phí tiếp cận một khoản vay cũng sẽ giảm nhờ quy trình hoàn toàn online, đồng thời nhận được lãi suất thấp hơn do Ngân hàng chia sẻ. Tuy nhiên, điểm mấu chốt là khi khách hàng trải nghiệm quy trình và có niềm tin thì thói quen sử dụng dịch vụ tín dụng từ off-line sang online là khó đảo ngược.

Nhìn về thành công của các Ngân hàng “theo sau” với chính sách linh hoạt: cấp thẻ tín dụng cho các khách hàng đã có thẻ tín dụng tại Citibank, HSBC,… và các NEO Bank đi đầu trong khu vực, chúng ta có thể tin tưởng rằng Cho vay tín chấp doanh nghiệp nhỏ hoàn toàn online có thể sớm được triển khai đầu tiên từ các Ngân hàng Việt.

MicroFund

Trái phiếu doanh nghiệp: ”Cần tăng cường minh bạch thông tin và hình thành kênh giao dịch thứ cấp”

Quy mô thị trường trái phiếu đang ngày càng lớn, đòi hỏi về sự phát triển bền vững cho thị trường theo đó cũng ngày càng trở nên cấp thiết. Xung quanh vấn đề này, VietnamFinance đã có cuộc trao đổi với ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinGroup.

Theo thống kê của Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX), giá trị trái phiếu phát hành trong nửa đầu năm 2020 thông qua kênh trái phiếu riêng lẻ lên đến 156.327 tỷ đồng. Riêng tháng 6, giá trị phát hành riêng lẻ đạt 42.473 tỷ đồng, bật tăng mạnh so với các tháng liền trước. Đây cũng là tháng có quy mô huy động lớn thứ hai trong các tháng kể từ khi bắt đầu ghi nhận số liệu thống kê từ HNX hồi tháng 8/2019, chỉ đứng sau giá trị phát hành vào tháng 12/2019.

– Dữ liệu từ HNX cho thấy 6 tháng đầu năm 2020, tổng lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành tăng 50% so với cùng kỳ năm ngoái. Theo ông, điều gì đã thúc đấy sự tăng trưởng ấn tượng này, cả từ phía người mua và từ phía người bán?

Ông Nguyễn Quang Thuân – Chủ tịch kiêm Tổng giám đốc FiinGroup: Theo tôi có 3 điểm chính thúc đẩy sự tăng trưởng này. Thứ nhất là ở góc độ các đơn vị phát hành, mặc dù nhìn chung trong quý I và quý II, quy mô đầu tư vào tài sản cố định (CAPEX) của các doanh nghiệp có giảm nhưng nhu cầu vốn vẫn rất lớn, đặc biệt là ngành bất động sản.

Thứ hai là định hướng của chính phủ và ngành ngân hàng là giảm tỷ trọng cho vay trung và dài hạn nhằm giảm áp lực cho ngành ngân hàng, đẩy sang cho kênh trái phiếu. Điều đó tốt vì khủng hoảng lần trước là do cho vay phi tài chính, trong đó cho vay bất động sản là chính. Các doanh nghiệp bất động sản khó khăn đã ảnh hưởng lớn đến các ngân hàng.

Thứ ba là ở góc độ nhà đầu tư cá nhân. Họ thích kênh đầu tư nào có lợi suất cao và quan trọng là họ có tiền. Thay vì gửi tiết kiệm 4-5%/năm, chơi chứng khoán quốc tế, vàng, bạc, dầu, thậm chí cá độ, lô đề…, đầu tư bất động sản thì phức tạp hơn vì phải đánh giá thị trường, họ đẩy sang kênh đầu tư có lãi suất danh nghĩa 8-9%/năm, thậm chí 10-12%/năm.

3 điểm đó tổng hòa, phản ánh sự gia tăng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp trên thị trường sơ cấp trong những năm vừa qua, đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm nay.

Tuy nhiên, bên cạnh lợi nhuận thì cũng cần lưu ý vế sau là rủi ro. Điều này đặt ra vấn đề hình thành thị trường trái phiếu thứ cấp và minh bạch thông tin. Cũng như cổ phiếu, nhu cầu thanh khoản cho trái phiếu cũng quan trọng.

– Quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp ngày càng lớn phần nào cho thấy nhu cầu huy động vốn trung và dài hạn của các doanh nghiệp là rất lớn. Ông có cho rằng kênh trái phiếu doanh nghiệp trong tương lai có thể trở thành đối trọng thực sự của kênh ngân hàng trong việc huy động vốn trung và dài hạn cho doanh nghiệp hay không?

Tôi nghĩ là đương nhiên. Kênh trái phiếu doanh nghiệp là đối trọng, là một “chân kiềng” rất cần thiết cho thị trường vốn. Tất nhiên không có nghĩa là ngân hàng không cung cấp vốn trung và dài hạn nhưng tỷ lệ, cơ cấu phải đảm bảo an toàn hệ thống.

Ở các nước trong khu vực và trên thế giới, tùy mức độ phát triển khác nhau, thị trường trái phiếu doanh nghiệp đa phần có quy mô lớn, thậm chí lớn hơn cả thị trường cổ phiếu nếu ở các nước phát triển.

Tại Việt Nam, nếu tính theo giá trị phát hành và đang lưu hành hàng năm thì quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp đang ở mức cỡ khoảng 10-11% GDP, trong khi thị trường cổ phiếu đang ở mức khoảng 80% GDP.

– Theo ông, có thuận lợi và rào cản gì trong việc phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp để kênh này trở thành đối trọng thực sự về quy mô so với kênh ngân hàng?

Thuận lợi là mức độ phát triển của thị trường đang rất thấp và nhu cầu thực sự là có, điều đó thể hiện ngay ở số liệu phát hành thời gian qua.

Rào cản thì khá nhiều. Thứ nhất là về thị trường thứ cấp. Chúng ta phải tạo thanh khoản cho trái phiếu doanh nghiệp. Điều đó tốt cho cả công ty chứng khoán và các đơn vị bảo lãnh. Vốn của công ty chứng khoán có hạn, vốn của ngân hàng cũng có hạn, không thể phát hành ra thị trường và cam kết bảo lãnh mãi được.

Mua lại cũng rất rủi ro, nếu giá thị trường của trái phiếu về 0 khi doanh nghiệp phá sản thì liệu đơn vị bảo lãnh có đủ vốn để mua lại không? Quy mô nhỏ như hiện tại thì có thể nhưng nếu gấp đôi mức này thì hệ lụy có thể lây sang cả ngân hàng và công ty chứng khoán – những đơn vị đứng ra bảo lãnh.

Thế nên, phải có thị trường thứ cấp.

Rào cản thứ hai liên quan đến nhà đầu tư cá nhân.

Nhà đầu tư cá nhân chuyển từ tiết kiệm sang mua trái phiếu, một phần vì các đơn vị phân phối, bao gồm ngân hàng và công ty chứng khoán thuyết phục họ. Vấn đề là lãi suất cao thì rủi ro đi kèm thế nào, doanh nghiệp nào phát hành, sức khỏe doanh nghiệp đó ra sao, định hạng tín nhiệm ở mức nào, thanh khoản trái phiếu tốt hay không…, đa phần nhà đầu tư cá nhân không biết.

– Thống kê của Công ty Chứng khoán SSI cho thấy, tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân mua trực tiếp trái phiếu doanh nghiệp sơ cấp trong 6 tháng đầu năm lên tới 15%, trong khi năm 2019 trung bình chỉ 10%, cho thấy kênh trái phiếu doanh nghiệp đang ngày càng hấp dẫn nhà đầu tư cá nhân. Mặt khác, cơ quan quản lý lại liên tục cảnh báo nhà đầu tư cá nhân không nên mua trái phiếu doanh nghiệp chỉ vì lãi suất cao. Là người nghiên cứu kỹ về các mô hình thị trường trái phiếu doanh nghiệp trên thế giới, ông có thể chia sẻ về điều này? Tại các thị trường khác, tỷ trọng nhà đầu tư cá nhân tham gia có lớn hay không?

Theo tôi được biết thì tùy nước. Có những nước như Nhật chỉ chủ yếu là nhà đầu tư tổ chức. Malaysia thì kết hợp cả nhà đầu tư cá nhân và tổ chức, Thái Lan cũng vậy. Nhưng với Trung Quốc và tôi nghĩ rằng với cả Việt Nam, thị trường trái phiếu doanh nghiệp vẫn phải hướng đến nhà đầu tư cá nhân.

Đương nhiên, thị trường vốn sẽ dần hình thành và chuyển vốn sang các kênh quản lý chuyên nghiệp, trong đó có quỹ đầu tư trái phiếu (bond fund). Thế nhưng phải chấp nhận thực tế là 5, 10 năm nữa, sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân vẫn rất phổ biến.

Luật chứng khoán sửa đổi đã phân định ra nhà đầu tư chuyên nghiệp và nhà đầu tư cá nhân. Điều đó rất tốt. Cùng với đó, có các ràng buộc cho các đơn vị phát hành, phân phối trái phiếu doanh nghiệp cũng là một sự thay đổi rất kịp thời.

Thế nên, hạ tầng phát triển thị trường trái phiếu doanh nghiệp phải đi theo. Chẳng hạn, công bố thông tin, định hạng tín nhiệm… phải được thực hiện vì nhà đầu tư trái phiếu khác nhà đầu tư cổ phiếu. Nhà đầu tư cổ phiếu còn được đi họp cổ đông một năm một lần, còn được đọc công bố thông tin rất đầy đủ, nhưng nhà đầu tư trái phiếu thì không được như vậy.

Do đó, chuẩn hóa công bố thông tin để đảm bảo quyền lợi nhà đầu tư trái phiếu là cực kỳ quan trọng. Khi bạn gửi tiền, bạn được đảm bảo bởi các quy định rất chặt của ngân hàng, bởi bảo hiểm tiền gửi nhưng mua trái phiếu thì không được bảo đảm như vậy. Trong khi đó, công bố thông tin còn khá mù mờ, cần cải thiện.

Một rào cản nữa liên quan đến an toàn hệ thống. Đối với ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cơ bản quản lý được, nắm được những rủi ro trên thị trường. Trái phiếu thì khó khăn hơn, thậm chí nhìn thấy rủi ro nhưng khó xử lý.

Ví dụ ngân hàng cho vay thì còn có thể đảo nợ, sắp xếp xoay vòng vốn, hoặc có biện pháp kỹ thuật để tái cấu trúc. Còn với hàng chục nghìn nhà đầu tư trái phiếu chuyển từ tiết kiệm sang, đến một ngày họ không nhận được lãi, gốc thì mới tá hỏa tìm doanh nghiệp phát hành, lúc đó có thể lại kéo nhau đến ngân hàng giống như những vụ condotel vừa qua.

– Rất nhiều người khi chuyển từ tiết kiệm sang mua trái phiếu, thậm chí họ còn không phân biệt được 2 kênh đầu tư này…?

Đó là vấn đề về minh bạch thông tin sản phẩm. Đó là trách nhiệm của đơn vị phân phối và trực tiếp là các nhân viên đi tư vấn đầu tư, bán hàng. Điều này cho thấy quy chuẩn môi giới trái phiếu phải được hoàn thiện. Giống như môi giới chứng khoán, môi giới trái phiếu cũng phải được đào tạo, cấp chứng chỉ.

Nhìn chung, cơ quan quản lý cần tăng cường giám sát, tránh để các tổ chức, cá nhân làm không chuẩn chỉnh.

Theo tôi, bây giờ là lúc phải hành động. Không nên để đến lúc quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp quá lớn, xảy ra nhiều vụ như condotel vừa rồi thì xử lý là rất muộn, bởi chính sách bao giờ cũng có độ trễ. Nếu bắt tay làm ngay bây giờ thì 3, 5 năm sau, nếu xảy ra vấn đề thì cũng chỉ là lốm đốm và xử lý được. Nếu không làm, đến lúc quy mô thị trường lớn, cá nhân đã mua nhiều thì tiềm ẩn rủi ro rất lớn.

Hiện thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam còn mới, đương nhiên tạo điều kiện phát triển là tốt nhưng quy mô cũng đã đến 10-11% GDP thì phải khẩn trương, kịp thời có các biện pháp để phát triển bền vững… Nếu để phát triển đến cỡ 70% GDP, quả bóng đã rất to thì không cần kim sắt, chỉ cần chạm nhẹ là có thể nổ.

Theo: Tùng Lâm – Vietnamfinance.vn

https://bit.ly/3eZ9t5h

Trái phiếu doanh nghiệp là xu hướng tất yếu

Trái phiếu doanh nghiệp có quy mô tăng trưởng bình quân tới 45%/năm giai đoạn từ 2017 đến 6 tháng năm 2020. Và với kết quả trên, quy mô thị trường này đã vượt xa mục tiêu 7% GDP vào năm 2020 mà Chính phủ từng tính toán trước đây.

Tình hình phát hành riêng lẻ trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) 6 tháng đầu năm 2020

Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội vừa công bố, xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ trong năm 2019 tiếp tục thể hiện, ngay cả trong bối cảnh có ảnh hưởng của dịch Covid-19.

Cụ thể, tổng cộng đã có 818 đợt phát hành của 130 doanh nghiệp, với tổng giá trị phát hành đạt 156,32 nghìn tỷ đồng, tương đương với khoảng 6,7 tỷ USD, trong nửa đầu năm nay. So với cùng kỳ 2019, tốc độ tăng trưởng ghi nhận lên tới gần 50%, thậm chí có thể sẽ còn cao hơn do các thông tin phát hành vẫn được công bố và cập nhật sau đó.

Tính toán của Công ty Chứng khoán Sài Gòn (SSI) cho thấy, tổng lượng TPDN lưu hành ước khoảng 783.000 tỷ đồng, tương đương 12,8% GDP lũy kế 12 tháng gần nhất..

Vì sao tăng trưởng mạnh mẽ?

Mặc dù liên tục tăng trưởng nhanh, đặc biệt hai năm gần đây, nhưng thị trường TPDN Việt Nam vẫn được xem còn mới. Cũng chính những nhân tố mới đã kích thích sự mở rộng mạnh mẽ này. TPDN đã có thâm niên hàng chục năm trên thị trường Việt Nam. Nó cũ với các ngân hàng thương mại (NHTM) – đối tượng nắm giữ chủ yếu và truyền thống. Nhân tố mới và kích thích ở đây khi thị trường này có thêm các chủ thể khác tham gia.

Báo cáo năm 2018 của Công ty Chứng khoán VCBS từng lưu ý rằng: đã có sự chuyển dịch nắm giữ TPDN sang các công ty bảo hiểm và quỹ đầu tư. Đây cũng là một cú hích chính yếu, khi làn sóng dịch chuyển cơ cấu danh mục thể hiện do cơ hội đầu tư vào trái phiếu Chính phủ (TPCP) không còn hấp dẫn như trước. Thực tế, từ năm 2016 sang 2017, rồi đặc biệt trong 2019 và nửa đầu 2020, lãi suất TPCP liên tục giảm mạnh và sâu.

Nếu như khoảng 5 năm trước, TPCP kỳ hạn 10 năm phải căng lãi suất lên cỡ 7%/năm để huy động thành công, thì đến 2019 và hiện chỉ còn quanh 2,7%/năm.Nói cách khác, TPDN trở thành một điểm đến mới trong nhu cầu đa dạng danh mục đầu tư của các tổ chức tài chính. Nguồn cung cũng gia tăng nhanh chóng.

Nhìn lại, giai đoạn trên cũng là yêu cầu đặt ra căng thẳng trong thực hiện chính sách siết dần giới hạn dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn tại các NHTM. Nguồn tín dụng trung dài hạn trở nên hạn hẹp, hoặc phải đánh đổi với lãi vay cao. Nhiều doanh nghiệp sử dụng công cụ trái phiếu, tạo hàng như một giải pháp, phản ứng tạo cung trên thị trường, đặc biệt ở lĩnh vực bất động sản.

Thêm nữa, một thị trường hiện đại hơn dần hình thành. Mô hình ngân hàng kết nối đầu tư, các quỹ đầu tư trái phiếu, công ty chứng khoán bảo lãnh thanh khoản… phát triển dần. Ở đây, sức hút đối với sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân bắt đầu thể hiện.

Từ một sản phẩm gần như tuyệt đối chỉ dành cho tổ chức, TPDN những năm gần đây đã mở rộng sang nhóm khách hàng cá nhân. Tỷ trọng nắm giữ của họ qua thị trường sơ cấp đã lên tới 9,4% cuối năm 2019, rồi tăng mạnh lên khoảng 27% nửa đầu năm nay.

Quy mô đó còn lớn hơn nhiều nếu thống kê thêm tỷ trọng thứ cấp, các tổ chức mua qua sơ cấp rồi phân phối lại cho nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư cá nhân – nhân tố mới đã và đang góp thêm lực đẩy cho xu hướng mở rộng mạnh mẽ của thị trường TPDN.

Trái phiếu doanh nghiệp có nhiều yếu tố hậu thuẫn

Như trên, TPDN trở thành một điểm đến trong nhu cầu đa dạng danh mục đầu tư, khi lãi suất TPCP kém hấp dẫn. Chênh lệch lãi suất ở đây cũng chính là lực hút các nhà đầu tư cá nhân.

Theo thống kê của SSI, tính bình quân gia quyền theo giá trị phát hành năm 2019, lãi suất TPDN trung bình toàn thị trường là 8,8%/năm. Song, trong 2019 và hiện nay có khá nhiều TPDN lãi suất từ 10 – 11%/năm, cao hơn nhiều so với lãi suất tiền gửi ngân hàng. Trong đó, một cấu phần phát hành lớn, chiếm lớn nhất tại nhiều thời điểm thống kê, là trái phiếu của các NHTM. Chênh lệch lãi suất ở đây hấp dẫn, trong khi mức độ rủi ro được so sánh như gửi tiền ở chính ngân hàng – nhà phát hành trái phiếu.

Chênh lệch lãi suất cũng chính là điểm đang hậu thuẫn cho TPDN

Hậu thuẫn này có nền tảng là thanh khoản hệ thống NHTM đang dồi dào, dự báo tiếp tục thuận lợi trong 6 tháng cuối năm khi NHNN duy trì chính sách tiền tệ nới lỏng thận trọng, chưa kể khả năng cơ quan này trở lại mua vào ngoại tệ và tạo thêm nguồn tiền cung ứng. Trong khi đó, tín dụng tăng trưởng thấp và chậm.

Những diễn biến trên đã và đang được cụ thể hóa bằng đà sụt giảm của lãi suất huy động VND. Chênh lệch có lợi cho lãi suất TPDN theo đó càng tạo thêm sức hút nhà đầu tư. Nhìn gần thêm một chút nữa, tháng 10/2020 cũng đang đến – thời điểm thực hiện hạ thêm một nấc giới hạn dùng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn của các NHTM.

Nguồn cung trái phiếu và sự sôi động dự báo sẽ nối tiếp, khi các NHTM cũng có nhu cầu sử dụng công cụ này để cân đối vốn đầu vào trung dài hạn… Tuy nhiên, có khả năng NHNN sẽ lùi mốc hẹn siết lại này thêm 6 tháng hoặc 1 năm. Dữ liệu so sánh tại thời điểm tháng 9/2019, TPDN chiếm tỷ trọng lớn tại các thị trường phát triển như Hàn Quốc, Singapore, Hồng Kông…

Mạnh mẽ nhưng còn sơ khởi, xu hướng mở rộng là tất yếu

Từ trong năm 2019, trước xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ của thị trường TPDN, Bộ Tài chính đã lên tiếng cảnh báo rủi ro tiềm ẩn, nhất là đối với sự tham gia của nhà đầu tư cá nhân. Năm 2020, sau quý I xu thế mở rộng tiếp tục thể hiện, có hơi hướng mạnh hơn, Bộ Tài chính liên tiếp có thêm cảnh báo.

Tuy vậy, ngay cả khi đã đạt quy mô khoảng 12,8% GDP, trong một báo cáo đầu năm nay, khối phân tích của SSI vẫn cho rằng thị trường TPDN Việt Nam mới chỉ ở giai đoạn sơ khởi. Bởi lẽ, cân đối thị trường tài chính Việt Nam vẫn như “đảo ngược” so với các thị trường phát triển. Cụ thể, tại các thị trường phát triển, tỷ lệ tín dụng trên GDP thấp, ngược lại tỷ lệ trái phiếu trên GDP áp đảo; còn tại Việt Nam thì ngược lại với chênh lệch quá lớn.

Theo thống kê của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB), tổng quy mô thị trường trái phiếu Việt Nam (gồm cả TPCP và TPDN) tại 30/9/2019 là 95,37 tỷ USD, tương đương 37,6% GDP – là mức tương đương với Philippines nhưng còn cách khá xa Trung Quốc, Thái Lan (xấp xỉ 60% GDP). Các nước càng phát triển thì tỷ trọng kênh trái phiếu trên GDP càng lớn như Nhật Bản là 214% GDP, Hàn Quốc là 120% GDP.

Đặt trong tương quan đó, SSI cho rằng, thị trường trái phiếu, đặc biệt là TPDN, mở rộng là xu hướng tất yếu và phù hợp để tạo sự cân bằng và nâng cao chất lượng thị trường tài chính. Đi cùng xu thế này, TPDN tạo một kênh dẫn vốn trung dài hạn, giảm tải gánh nặng đáp ứng từ hệ thống NHTM – những đầu mối chủ yếu cung cấp dịch vụ tài chính, thanh toán và cho vay ngắn hạn bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp mà thôi.

Huy động và cho vay luôn tiềm ẩn rủi ro, đặc biệt ở nhu cầu trung dài hạn. Với xu thế phát triển mạnh mẽ trên, TPDN đang từng bước bóc tách bớt rủi ro ra khỏi bảng cân đối của các NHTM, trở thành một phân khúc mới theo khẩu vị của các chủ thể tham gia thị trường.

Sự phát triển nhanh của thị trường TPDN hiện nay tiềm ẩn những rủi ro nhất định

Như trên, Bộ Tài chính đã liên tiếp khuyến cáo. Và vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 81, với những quy định chặt chẽ hơn về điều kiện phát hành, cơ chế thông tin và minh bạch, tần suất và quy mô phát hành, quy định kiểm toán…, để một mặt bắt nhịp và uốn nắn thị trường phát triển lành mạnh và bền vững, mặt khác tăng cường khung khổ bảo đảm an toàn hơn cho nhà đầu tư.

MINH ĐỨC

https://bizlive.vn/tai-chinh/da-co-nhung-thang-thot-nhung-trai-phieu-doanh-nghiep-la-xu-huong-tat-yeu-3548871.html